http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=287901&ChannelID=89
Thứ Bảy, 15/11/2008, 00:00 (GMT+7)
Barack Obama: Hy vọng táo bạo - Kỳ 9: Thế giới ngoài kia
Ngày 21-7-2008, ứng viên tổng thống Mỹ - thượng nghị sĩ Barack Obama (trái) và tướng tư lệnh Mỹ tại Iraq David Petraeus thị sát Baghdad từ máy bay - Ảnh: AP
TT - Tháng 1-2006, tôi đáp chiếc máy bay vận tải quân sự C-130 đi thăm Iraq lần đầu tiên. Hai đồng nghiệp cùng đi với tôi là thượng nghị sĩ Evan Bayh bang Indiana và hạ nghị sĩ Harold Ford, Jr. bang Tennessee đều từng đến đây.
Đã bốn năm rưỡi trôi qua kể từ ngày tôi nghe tin máy bay đâm vào Trung tâm Thương mại thế giới, tôi đang bay đến Baghdad với tư cách là một thượng nghị sĩ, phần nào đó có trách nhiệm tìm ra cách giải quyết tình trạng lộn xộn ở đây.
>> Kỳ 1: Câu chuyện từ một cái tên
>> Kỳ 2: Không có nước Mỹ da đen hay da trắng
>> Kỳ 3: Hiện thân của giấc mơ Mỹ
>> Kỳ 4: Lời gửi gắm của cử tri
>> Kỳ 5: Đi xin tiền
>> Kỳ 6: Cuộc chiến cuồng nộ
>> Kỳ 7: Chỗ ngồi lịch sử
>> Kỳ 8: Một gia đình
Sự căng thẳng đang chịu đựng
Tôi chỉ có một ngày rưỡi ở Iraq, chủ yếu là ở Vùng Xanh, một khu vực rộng mười dặm nằm ở trung tâm Baghdad, trước đây từng là trái tim của chính quyền Saddam Hussein, hiện là khu vực cách ly do Mỹ kiểm soát, bao quanh là tường an ninh và hàng rào dây thép gai. Nhóm phụ trách tái thiết trình bày ngắn gọn về khó khăn khi duy trì việc cung cấp điện và sản xuất dầu trước sự phá hoại của các lực lượng nổi dậy; các sĩ quan tình báo nói về nguy cơ ngày càng cao đến từ phiến quân Hồi giáo và những cuộc tấn công của nhóm này vào lực lượng an ninh Iraq.
Sau đó, chúng tôi gặp gỡ các thành viên của Ủy ban bầu cử Iraq, họ rất hăng hái trước những thay đổi lớn trong kỳ bầu cử gần đây, và trong một giờ chúng tôi lắng nghe đại sứ Mỹ Khalilzad nói về những hoạt động ngoại giao con thoi phức tạp mà ông đang đảm nhiệm để đưa người Shiite, Sunni và người Kurd hợp tác với nhau trong một chính phủ thống nhất.
Vào buổi chiều muộn, đoàn chúng tôi tổ chức một cuộc họp báo với các đại diện báo chí quốc tế ở Baghdad. Sau phần hỏi và trả lời, tôi đề nghị các phóng viên ở lại để nói chuyện vui, không chính thức. Tôi nói tôi muốn biết về cuộc sống ngoài Vùng Xanh. Họ vui vẻ đồng ý nhưng nói chỉ có thể ở lại thêm 45 phút - lúc đó đã muộn, và cũng như nhiều người dân Baghdad, họ tránh đi lại sau khi mặt trời lặn.
Nhìn chung cả nhóm đều trẻ, phần lớn mới ở tuổi 20 hoặc ngoài 30, tất cả đều ăn mặc đơn giản đến mức có thể nghĩ họ là sinh viên. Tuy nhiên, trên khuôn mặt họ đã in dấu những căng thẳng đang chịu đựng - đến thời điểm đó đã có 60 nhà báo bị chết ở đây. Tôi hỏi liệu họ có nghĩ căng thẳng sẽ giảm bớt nếu Mỹ rút quân không và đoán rằng họ sẽ khẳng định điều đó. Nhưng ngược lại, họ lắc đầu. “Tôi đoán nếu thế đất nước này sẽ rơi vào nội chiến chỉ trong vòng một tuần - một người trả lời - Một trăm, có thể là 200.000 người chết. Chúng ta là thứ duy nhất giữ cho nơi này còn gắn bó với nhau”.
Đêm đó tôi không ngủ được; tôi xem một trận bóng chày được truyền trực tiếp qua vệ tinh đến ngôi nhà bên hồ trước đây dành cho Saddam và khách của ông ta. Có đôi lần tôi tắt tiếng tivi và nghe tiếng súng cối phá tan sự tĩnh lặng.
Rút quân
Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên chiếc Black Hawk đến căn cứ thủy quân lục chiến ở Fallujah nằm ở vùng phía tây khô cằn của Iraq, thuộc tỉnh Anbar. Ở phần Anbar do người Sunni chiếm đóng đã diễn ra một trong những cuộc giao tranh đẫm máu nhất chống lại quân nổi dậy, và không khí doanh trại ở đây khắc nghiệt hơn nhiều so với ở Vùng Xanh; chỉ hôm trước thôi năm lính thủy đánh bộ đi tuần đã chết do bom bên vệ đường hoặc do vũ khí nhẹ của quân nổi dậy. Quân lính ở đây trông cũng ít kinh nghiệm hơn, phần lớn mới ngoài 20 tuổi, rất nhiều anh chàng mặt còn mụn và cơ thể vẫn đang lớn.
Vị tướng chỉ huy doanh trại đã thu xếp một cuộc gặp ngắn và chúng tôi nghe các sĩ quan cao cấp nói về tình trạng tiến thoái lưỡng nan của quân Mỹ: nhờ khả năng được cải thiện nên họ bắt được ngày càng nhiều thủ lĩnh quân nổi dậy, nhưng cũng giống như các băng đảng đường phố ở Chicago, cứ mỗi khi họ bắt được một tên thì có vẻ như luôn có hai tên khác sẵn sàng thay thế. Không chỉ chính trị mà điều kiện kinh tế cũng góp phần gây ra tình trạng nổi loạn - chính phủ thì bỏ mặc Anbar, còn tỉ lệ đàn ông thất nghiệp lên tới xấp xỉ 70%.
“Chỉ cần hai hay ba USD là anh thuê được bọn trẻ đặt bom rồi - một sĩ quan nói - Ở đây chừng đó là một số tiền lớn”.
Đến cuối cuộc họp thì trời hơi có sương mù nên chúng tôi phải hoãn bay đến Kirkuk. Trong khi chờ đợi, nhân viên phụ trách chính sách ngoại giao Mark Lippert đi lại nói chuyện với một sĩ quan cao cấp, còn tôi bắt chuyện với một trong những viên thiếu tá phụ trách chống phiến quân vùng này. Khi viên sĩ quan tùy tùng ra hiệu máy bay đã sẵn sàng cất cánh, tôi chúc viên thiếu tá gặp may mắn và đi ra máy bay. Mark đi ngay cạnh tôi và tôi hỏi anh thu được gì sau khi nói chuyện với viên sĩ quan cao cấp kia. “Tôi hỏi ông ta nghĩ cách tốt nhất để giải quyết tình trạng này là gì”. “Thế ông ta bảo sao?”. “Rút quân”.
Câu chuyện Mỹ can thiệp vào Iraq sẽ còn được phân tích và tranh cãi trong nhiều năm tới - thật ra đó vẫn là một câu chuyện đang dở dang. Nhưng cũng không quá sớm để rút ra một vài kết luận từ những gì chúng ta đã làm ở Iraq. Bởi khó khăn xuất hiện không chỉ do làm việc kém mà chúng còn phản ánh nhận thức sai lầm. Thực tế là gần năm năm sau sự kiện 11-9 và 15 năm sau khi Liên Xô tan rã, nước Mỹ vẫn chưa có chính sách an ninh quốc gia mang tính gắn kết.
Tại sao lại đưa quân đến Iraq chứ không phải Bắc Triều Tiên hay Myanmar? Có phải chúng ta định sử dụng sức mạnh quân sự ở bất cứ đâu có chế độ độc tài khủng bố người dân, và nếu như vậy thì phải ở lại bao lâu để đảm bảo đất nước đó có nền dân chủ vững chắc? Chúng ta cần thông qua Liên Hiệp Quốc trong mọi vấn đề hay chỉ thông qua khi họ sẵn lòng phê chuẩn các quyết định của chúng ta?...
Tôi không dám nói tôi có sẵn chiến lược lớn này trong túi. Nhưng tôi biết tôi tin vào cái gì và tôi sẽ đề xuất một vài vấn đề mà người dân Mỹ sẽ thống nhất, đó là những điểm khởi đầu cho sự đồng thuận mới.
Mùa thu năm 2002, tôi quyết định sẽ tranh cử vào thượng viện liên bang và tôi biết cuộc chiến diễn ra ở Iraq sẽ là đề tài lớn trong mọi chiến dịch vận động. Một nhóm các nhà hoạt động xã hội ở Chicago đề nghị tôi phát biểu trong một cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh sẽ diễn ra vào tháng mười.
Trước 2.000 người tập trung ở quảng trường liên bang ở Chicago, tôi giải thích rằng không như nhiều người trong đám đông, tôi không phản đối mọi cuộc chiến tranh, rằng ông tôi đã nhập ngũ ngay sau ngày Trân Châu cảng bị ném bom. Tôi cũng nói “sau khi chứng kiến vụ giết chóc và phá hủy, khói bụi và nước mắt, tôi ủng hộ quyết tâm của chính phủ sẽ tìm kiếm và nhổ tận gốc bất cứ kẻ nào đã giết hại những người vô tội nhân danh sự tàn ác”, và “chính tôi cũng sẵn lòng cầm vũ khí để ngăn không cho thảm kịch đó tái diễn”. Cái tôi phản đối là “một cuộc chiến ngớ ngẩn, vội vàng, không dựa trên nguyên nhân nào ngoài sự giận dữ, không dựa trên nguyên tắc gì ngoài phục vụ chính trị”.
Và tôi nói tôi biết ngay cả thắng được chiến tranh Iraq thì Mỹ vẫn sẽ mất không biết bao nhiêu thời gian, bao nhiêu chi phí và không thể lường hết được hậu quả. Tôi biết nếu chúng ta xâm lược Iraq mà không có lý do cụ thể cũng như không được quốc tế ủng hộ, hành động đó chỉ thổi bùng lên ngọn lửa ở Trung Đông, khuyến khích thái độ xấu nhất chứ không phải tốt nhất của thế giới Ả Rập, cũng như đẩy mạnh quá trình tuyển mộ của Al Qaeda.
BARACK OBAMA (Nguyễn Hằng dịch)
___________________
Với Tổng thống Bush, Obama cũng có cái giống nhau. Lần đầu tiên Obama vào thăm Nhà Trắng, tổng thống đã dặn dò ông: “Ai cũng chờ anh trượt chân hết, anh hiểu không? Thế nên phải cẩn thận đấy”.
Kỳ cuối: Tương lai sáng sủa
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét