http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=291333&ChannelID=119
Thứ Bảy, 06/12/2008, 07:51 (GMT+7)
Thịnh vượng là một sự lựa chọn
Ông Michael Porter đang thuyết giảng về “cạnh tranh toàn cầu và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam” tại TP.HCM ngày 1-12-2008 - Ảnh: T.T.D.
TTCT - Tại sao một số quốc gia gặp nhiều bất lợi về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên lại có thể phát triển thịnh vượng, trong khi một số quốc gia khác có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi lại tụt hậu? Vì sao một số nước thành công trong khi số khác lại thất bại trong cạnh tranh quốc tế?
Với cách tiếp cận “từ dưới đi lên”, Michael Porter, người được xem là cha đẻ của chiến lược cạnh tranh, cho rằng trong khi hầu hết tư duy và chính sách đều tập trung vào các điều kiện kinh tế vĩ mô cho tăng trưởng và thịnh vượng thì cần đặt trọng tâm vào những nền tảng kinh tế vi mô. Trong khi chính phủ đóng vai trò trung tâm trong hầu hết các lý thuyết thì ông lại nhấn mạnh đến vai trò của công ty, tức tế bào của nền kinh tế.
Lợi thế cạnh tranh & lợi thế so sánh
Đưa ra lý thuyết về lợi thế cạnh tranh như nguồn gốc của sự giàu có, ông ngầm bác bỏ vai trò của lợi thế so sánh (vốn dựa vào tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động hay vốn tài chính) vốn đã phổ biến trong tư duy về cạnh tranh quốc tế. Ông cho rằng những yếu tố đầu vào này ngày càng trở nên ít có giá trị trong nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa, nơi mà tất cả đều có thể chuyển dịch. Thay vào đó, sự thịnh vượng phụ thuộc vào việc tạo dựng một môi trường kinh doanh cho phép quốc gia sử dụng hiệu quả và nâng cấp nguồn lực đầu vào của nó.
“Lợi thế cạnh tranh về cơ bản chỉ có thể hình thành và duy trì thông qua cải tiến, đổi mới và thay đổi không ngừng”
MICHAEL PORTER
Theo Michael Porter, mỗi quốc gia luôn có cơ hội để vươn lên thịnh vượng dù kém về tài nguyên, nguồn lực lao động hay vốn liếng. Miễn sao doanh nghiệp của quốc gia đó phải có được sức cạnh tranh. Sự giàu có không hề là một đảm bảo vĩnh viễn, như ông viết: “Nếu không duy trì được lợi thế cạnh tranh, tăng được năng suất thì duy trì mức tiền lương và thu nhập quốc gia còn khó, huống chi là tăng trưởng”.
Năng suất chính là câu trả lời của Michael Porter khi ông giải thích sự thành bại của các quốc gia. Ông viết: “Khái niệm có ý nghĩa duy nhất về sức cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất quốc gia... Để duy trì được sự tăng trưởng về năng suất đòi hỏi một nền kinh tế phải tự nâng cấp mình liên tục. Các doanh nghiệp trong một quốc gia phải không ngừng cải thiện năng suất bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung các tính năng mới, cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất”. Một quốc gia dựa vào nguồn lực tài nguyên hay nhân công, trong khi doanh nghiệp thiếu sức cạnh tranh và năng suất thấp thì không thể nào có cơ hội đi đến sự thịnh vượng (bền vững).
Do vậy, theo Michael Porter, thịnh vượng là một sự lựa chọn quốc gia. Giàu có là một sự lựa chọn! Do sức cạnh tranh không còn bị giới hạn trong những quốc gia được hưởng những điều kiện thuận lợi nên các quốc gia có thể chọn lựa sự thịnh vượng nếu họ xây dựng chính sách, luật pháp và thể chế dựa trên năng suất. Họ có thể chọn sự thịnh vượng bằng cách nâng cao năng lực của người dân (thông qua giáo dục), đầu tư vào những cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả thương mại.
Các quốc gia cũng có thể chọn sự nghèo đói nếu họ để các chính sách làm xói mòn hiệu suất kinh doanh, nếu họ để cho chỉ có một số ít người được đào tạo kỹ năng. Các quốc gia cũng có thể chọn việc hạn chế sự giàu có của mình nếu thành công trong kinh doanh có được là nhờ mối quan hệ quen biết hay sự nhượng bộ của chính phủ. Michael Porter nhận xét: “Chiến tranh hoặc chính phủ yếu kém có thể làm “trật bánh” sự phát triển, nhưng thường thì nhân dân có thể kiểm soát những điều này”.
Cũng theo Michael Porter, hoạt động quan trọng nhất của chính phủ là tạo ra một môi trường hỗ trợ việc nâng cao năng suất. Chính phủ phải cố gắng cải thiện môi trường kinh doanh theo nhiều cách, tránh xa việc hạn chế cạnh tranh (hay để tình trạng độc quyền) hoặc nới lỏng các tiêu chuẩn an toàn và môi trường. Bởi lẽ sự “giúp đỡ” kiểu đó thực tế sẽ làm giảm sức cạnh tranh (do ngăn cản sáng tạo và làm chậm quá trình nâng cao năng suất).
Bài học Hàn Quốc
4 thuộc tính
Tại sao một quốc gia gặt hái được thành công quốc tế trong một ngành công nghiệp nhất định (Đức nổi tiếng bởi máy in, xe hơi sang trọng và hóa chất; Thụy Sĩ nổi tiếng với sôcôla, dược phẩm; Thụy Điển nổi tiếng với xe tải hạng nặng và công cụ khai thác mỏ; Mỹ nổi tiếng với máy tính cá nhân, phần mềm, thẻ tín dụng và phim ảnh; Nhật nổi tiếng với đồ điện gia dụng, máy ảnh, robot; Ý nổi tiếng với gạch men, giày trượt tuyết, máy bao bì và thiết bị tự động)? Câu trả lời nằm trong bốn thuộc tính lớn của một quốc gia. Chúng định hình môi trường cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm lợi thế cạnh tranh. Đó là:
- Các điều kiện về yếu tố sản xuất (lao động được đào tạo, cơ sở hạ tầng...)
- Các điều kiện cầu (đặc tính của cầu trong nước)
- Các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan
- Chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa
Cách tương tác của các thuộc tính này quyết định sức cạnh tranh của quốc gia.
Trong số các nước khảo sát (Đan Mạch, Đức, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ), Michael Porter cho rằng Hàn Quốc (nước mà cách đây chưa lâu trong lịch sử còn xấp xỉ Việt Nam về nhiều mặt) có triển vọng lớn nhất để đạt đến địa vị tiên tiến thật sự trong vòng một thập niên nữa.
Hàn Quốc là một quốc gia không có tài nguyên đáng kể về hầu hết khoáng sản, năng lượng hoặc gỗ. Do địa thế núi đồi, Hàn Quốc thiếu cả đất trồng trọt. Gần như tất cả các ngành có sức cạnh tranh của Hàn Quốc đều phụ thuộc nặng nề vào nguồn nguyên liệu thô từ nước ngoài. Nhưng ngược lại với nguồn tài nguyên nghèo nàn là một nguồn nhân lực rất dồi dào: lực lượng lao động hơn 17 triệu người, giá nhân công tương đối thấp, người lao động hết sức kỷ luật và chăm chỉ, có trình độ giáo dục trung bình cao. Một tàu chở dầu phải 30 tháng mới hoàn thành thì các phân xưởng Hàn Quốc đóng xong trong 18 tháng.
Chỉ trong vòng hai thập niên, nước này đã nhanh chóng nâng cấp lợi thế cạnh tranh của mình và đang tiếp tục có tốc độ tăng trưởng cao về năng suất cũng như thu nhập bình quân đầu người.
Nghiên cứu sự thành công trong cạnh tranh của Hàn Quốc, Michael Porter cho rằng điều quan trọng nhất là sự cam kết của người dân Hàn Quốc đối với giáo dục. Ông viết: “Đây là cam kết mạnh mẽ nhất mà tôi từng thấy trong tất cả các quốc gia mà chúng tôi đã nghiên cứu. Đó là ưu tiên hàng đầu của tất cả các phụ huynh Hàn Quốc”.
Với 300.000-400.000 sinh viên vào đại học mỗi năm, hệ thống đại học của Hàn Quốc đầu tư mạnh mẽ vào ngành kỹ thuật (100 đại học kỹ thuật và hơn 100 đại học cao đẳng chính quy). Điều này khiến Hàn Quốc khác xa hầu hết các nước đang phát triển khác. Đó là chưa kể số lượng lớn sinh viên được đào tạo ở nước ngoài (Hàn Quốc dẫn đầu 10 quốc gia khảo sát về số lượng sinh viên và người học sau đại học tại Mỹ).
Chính phủ và các công ty Hàn Quốc đã tài trợ hào phóng cho việc học tập. Chi tiêu cho giáo dục chiếm đến 20,8% tổng ngân sách của Chính phủ Hàn Quốc năm 1987. Luật pháp nước này còn quy định các công ty lớn đến một mức độ nhất định phải cung cấp hoạt động đào tạo cho nhân viên. Việc đầu tư 25-30 triệu USD cho hoạt động đào tạo là rất phổ biến đối với các công ty lớn của Hàn Quốc. Sự cố gắng theo đuổi học tập mở rộng đến cả các lãnh đạo cấp cao. Nhiều giám đốc cấp cao của Hàn Quốc có học vị tiến sĩ trong các lĩnh vực kỹ thuật. Những người có bằng tiến sĩ từ một trường đại học hàng đầu của Mỹ luôn có một địa vị quan trọng.
Bên cạnh đó, các công ty lớn Hàn Quốc đầu tư rất nhiều để nâng cấp khả năng kỹ thuật. Chỉ tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) ở mức cao so với doanh thu là hiện tượng phổ biến.
ANH VIỆT
Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2008
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét